Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016

Lê Văn Khinh- Người Thầy đáng kính ( phần 3)


BÀI HỌC NHỚ ĐỜI.
           Hiện nay, trên đường từ Huể đi Đà nẵng, hai bên đường trưng bày san sát những cái tủ kính khung nhôm tráng lệ, trong đó chất đầy những chai lép 100ml chứa tinh dầu tràm trong suốt, màu mỡ gà, óng ánh. Không ít khách hàng đến mua về dùng hoặc mang làm quà biếu. Thứ tinh dầu tràm, chổi này có một mùi thơm đặc trưng đã tạo ra một hương Huế.
       Từ hàng trăm năm nay, dầu tràm đã đi theo người Huế từ khi nằm trong bụng mẹ cho đến khi từ giã cõi đời. Một đứa trẻ sinh ra trên đất Huế, lọt lòng ra đã ngập trong hương dầu tràm. Như một loại dược liệu thần tiên, dầu tràm được người Huế sử dụng trong cuộc sống để chữa …bách bệnh. Nhức đầu, sổ mũi- dầu tràm. đau bụng đầy hơi hay ọc ạch – dầu tràm, muỗi cắn, ong đốt… dầu tràm. say nắng, cảm lạnh – dầu tràm… cho đến trừ ma tà, tẩy uế …dầu tràm. 
         Hầu hết người Hu,ế bước chân đi ra khỏi nhà không có ai mà không có một lọ dầu tràm nho nhỏ mang theo bên mình như một lá bùa hộ mệnh. Cái chất lỏng vàng óng ánh được chưng cất từ những lá cây tràm, cây chổi ấy, dường như được cô đặc cả tinh túy của cả đất trời và tính cách của người Huế vào trong đó. Một giọt dầu tràm khi vừa xoa vào lòng bàn tay dã nóng rát lên như đang đứng dưới ánh nắng chói chang của miền trung. Mùi dầu tràm xộc vào hai lỗ mũi cay xè, chảy nước mắt, đưa lại cảm giác nhớ thương da diết cho những người Huế xa xứ. Hình ảnh những dân quê một sương hai nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời lại hiện ra trước mắt . Mùi dầu tràm trên một chuyến tàu đêm lặng lẽ trên xứ người lạnh lẽo, đem lại cho người Huế cái nồng ấm của vòng tay người thân. Đi giữa quảng trường ồn ào náo nhiệt giữa đô thị, hương tràm bất giác gợi nhớ mái tóc thề trên bờ vai thon thả của người con gái dịu hiền xứ Huế. Tỉnh dậy sau một cơn say, mùi dầu tràm đưa đến một cảm giác hối hận. Thằng con ngỗ ngược, mơ màng thấy người mẹ già buồn bã đang xoa dầu tràm từ lòng bàn chân lên đến thái dương, người vợ hiền đang bồng con lặng lẽ, lo lắng đứng bên cạnh giường . Lọ dầu tràm được mẹ chồng mang về khi con dâu có tin mừng là lời bảo đảm :’từ nay con sẽ là tài sản lớn nhất của mẹ’. Lọ dầu tràm do mẹ đẻ gởi đến là tấm lòng của người mẹ, gói ghém tình yêu cho con gái để chuẩn bị trao lại cho sinh linh nhỏ bé đang lớn lên từng giờ trong bụng. Cái ngượng ngùng của chàng trai đứng trước chiếc tủ gương mua một chai dầu tràm là thông điệp gửi đi cho cho trời đất biết hắn đã trưởng thành, hắn sắp được làm bố. Lọ dầu tràm không ghi tên người gửi là lời xin lỗi và chúc phúc của người yêu tuổi học trò…khi biết tin người tình cũ đã có niềm hạnh phúc mới. Có thể nói dầu tràm là một trong những tinh chất tạo nên tính cách người xứ Huế .
       Biết là vậy, nhưng đối với tôi, mùi dầu tràm lại đem lại một cảm giác cay đắng, ớn lạnh và ân hận, thấm thía. Trước mắt tôi Thầy Lê Văn Khinh, nhỏ nhắn, khiêm tốn lại hiện lên lồng lộng như một người cha với một Nhân cách lớn. Chuyện ấy xảy ra cách bây giờ khoảng 40 năm .
       Ngày ấy, lao động là một trong bốn kết quả đánh giá học sinh : học tập, đạo đức, lao động và thể dục. Mỗi tuần một buổi lao động, mùa mưa đi trồng sắn, chặt củi, mùa xuân đi lên rừng thu hoạch bông đót về làm chổi, mùa nắng thì nấu dầu tràm. Lao động xếp loại yếu phải ở lại lớp, nếu học sinh 12 thì không được thi tốt nghiệp. Vì vậy tất cả các lớp, thầy trò phải lo  tổ chức làm cho tốt.
Đến mùa nấu dầu tràm , một tuần mỗi học sinh phải nộp đủ 35 kg bổi lá tràm. Trường có hai lò nấu dầu tràm đặt dưới cái chòi lợp tôn gần sân bóng chuyền. Mỗi lớp chọn một tổ có chuyên môn, thay nhau nấu dầu, số còn lại thì đi vào rừng bứt bổi tràm làm nguyên liệu. Gọi là cái lò thế thôi nhưng chỉ cần ba cái thùng phuy, một cái để nguyên,cắt nắp, đặt bên dưới làm nồi. Một nửa thùng làm nắp đậy, trên nắp đậy khoét một lỗ tròn, chụp vào một ống nhôm cắt từ ống pháo sáng của Mỹ mua về từ các đại lý phế liệu chiến tranh. Ống nhôm này nối liền với một ống tuýp bằng đồng xoắn ruột gà ngâm trong thùng phuy thứ ba đựng nước lạnh làm bình ngưng. Bổi tràm được nhồi chặt vào nồi nấu đổ đầy nước vào . Lấy nửa thùng nắp đậy nhồi chặt bổi, úp vào phần nồi dưới, lấy bùn trét kín lại. Gắn ống dẫn vào nồi vào bình ngưng xong là nổi lửa lên đốt. Củi khỏi phải mua, lấy mỡ nó rán nó. Lá tràm nấu hôm trước đem ra sân bóng chuyền phơi một nắng, lấy vào đốt, cháy rầm rầm. Khi nấu phải cầm cái mỏ xảy thường xuyên đứng bên cạnh hất lá vào lò. Trời lạnh, đứa nào cũng tranh nhau đứng coi lửa, ấm lắm. Ngày nắng, đốt lò là một cực hình, như công nhân đứng trước lò nấu gang vậy. Đi chặt bổi thì rất mệt, trèo đèo lội suối, vào đến tận khe Trai, chùa bà Tham mới có. Gặp đúng bãi tràm, cắt một hồi là đầy gánh. Thừa thời gian, đi hái sim, đốt tổ ong vò vẽ,ong vàng về nướng ăn con non. Có đứa, ong đốt cho sưng mặt, nghỉ học cả tuần. Mấy thằng tinh nghịch, mỗi buổi đi bứt bổi tràm về còn có thêm mấy chú chào mào bông lau mới ra ràng, đem ra quán cafe bán lấy tiền lén lút tập uống rượu, hút thuốc. Làm thì mệt thật nhưng mà vui, học trò đứa nào cũng thích đi cắt bổi hơn ở nhà nấu dầu.
      Làm chủ nhiệm lớp, nỗi lo lớn nhất là buổi chiều khi đợi học trò đi cắt bổi về. Đứng theo dõi bàn cân mà cứ trông cho đến đứa cuối cùng về tới trường là thở phào nhẹ nhõm. Lạy trời, lạy Phật, ngày hôm nay không có đứa nào vướng phải mìn do chiến tranh để lại đâu đấy dưới mấy bụi tràm. Sợ phát run lên khi có mấy thằng quỷ sứ lôi dưới bó tràm ra mấy quả đạn pháo, chúng lượm về đi bán. Đã có một học sinh đưa đạn về nhà, cưa ra lấy thuốc nổ đi bắn cá, không may quả đạn nổ tại nhà, chết một lúc hai anh em…
     Nỗi lo thứ hai là lượng dầu của lớp mình nấu ra trong tuần không đủ khoán , đến thứ năm họp hội đồng ngồi cúi mặt xuống mà nghe thầy Thoang, trưởng ban lao động chì chiết. Mấy lớp khác học sinh con nhà nông nhiều, sức khỏe, biết cách chọn được loại tràm nhiều dầu thì không thiếu, có nhiều lớp vượt định mức, được cọng thêm điểm thi đua trong tuần. Lớp tôi chủ nhiệm, học sinh hầu hết ở Cầu Hai, Thừa lưu, Nước ngọt, Lăng cô. Phần thì lạ nước lạ cái, chẳng biết tràm ở rú nào lắm dầu,tràm ở rú nào không có dầu, cứ có tràm là bứt. Nhiều đứa đi láo ngáo cả buổi không tìm ra bụi tràm nào. Có đứa còn chưa phân biệt được lá tràm với lá móc. Phần thì bụng đói triền miên, mỗi tuần lên ở trọ, ba mẹ bới cho được 5,6 lon gạo, một bao khoai khô và mấy con cá kho mặn, hai ba ngày sau thì ăn "mắm đuôi" (muối đâm), khéo chia lắm thì gắng đến chiều thứ sáu. Sáng thứ bảy đến trường là ngồi ngó ra cửa sổ, chờ đến giờ tàu chợ Huế - Đà Nẵng đi ngang cửa trường là bay qua cửa sổ , chạy cả đoàn như ma đuổi, chạy cho kịp bám vào cửa lên xuống của mấy toa tàu chợ, làm gì có tiền mà đi xe đò !
     Họp cán bộ lớp lại, hò hét mấy cũng không đủ sản lượng, nguyên liệu thiếu phải góp tiền thuê đò đi vô tân khe Trai, tập trung nhân lực đi cắt, phần chuyên chở bằng đò không vất vả lắm. Lớp khác thì trong hai buổi chiều là nấu đủ dầu, lớp tôi tranh thủ cả ngày chủ nhật ,lò rảnh, thầy trò chia nhau nấu thêm mấy lò nữa cũng không xong. Một mẻ như vậy với khoảng 200kg bổi người ta nấu được một rum dầu( khoảng 1300ml), lớp tôi không bao giờ đạt 800ml. Tìm đến mấy người dân có nghề nấu dầu trong làng Phước Trạch, người ta bày cho cách ủ tràm một hai ngày cho nó rụng, lấy lá, không có cọng nữa, nấu được nhiều dầu hơn, giỏi lắm được 1000ml. Cuối tuần cậu lớp phó phụ trách lao động đã hết cách, lấy dầu hỏa trộn vào cho đủ sản lượng. Khối lượng riêng dầu hỏa và dầu tràm gần bằng nhau, hòa tan hết, mùi hôi của dầu hỏa thì bị mùi thơm của dầu tràm át hết, người thính mũi lắm cũng khó nhận ra. Khi đi nộp sản phẩm cho trường bao giờ cũng giao tay ba. Có khách hàng, Ban lao động của trường và đại diện lớp –thầy Thoang, chắc như cua gạch chỉ theo dõi đong đếm thôi, không bao giờ nhập kho loại quý giá này sợ thất thoát. Bà Minh, người buôn dầu tràm chuyên nghiệp ở Nước Ngọt thường xuyên thu mua dầu tràm của trường. Bà chỉ nhỏ một giọt dầu tràm lên lòng bàn tay, xoa xoa lên da một tý đưa lên mũi khịt khịt mấy cái. Ngửa lòng bàn tay đưa ra trước ánh sáng, lật lât đi lật lại mấy cái, nheo mắt lại thấy dầu còn ướt trong lòng bàn tay và cái váng lấp lánh bảy sắc cầu vông là hô ngay :
- Một nửa giá. Dầu hỏa nhiều quá. Đừng cãi, không bán thì thôi, của nào tiền ấy.
      Cậu lớp phó mếu máo ôm bịch dầu về, không nhập được. Sáng thứ hai lại phải góp tiền bí mật đến các lò tràm quen biết, mua dầu tràm thật về thay thế. Nó cũng không quên cái bài chắc như cua gạch của thấy Thoang : giao tay ba, không nhập được, không trả tiền. Số dầu tràm bị trộn dầu hỏa lại ngậm ngùi chia nhau về làm quà cho bố mẹ. 
       Khi đi sâu vào nghiên cứu tinh dầu tràm, tôi mới biết nhiệt độ bay hơi hai loại dầu này khác nhau, hòa tan trong dầu tràm nhưng dầu hỏa bay hơi chậm hơn, ở điều kiện nhiệt độ thường không tan tuyệt đối. Bấy giờ tôi mới biết, bà Minh buôn dầu tràm quả thực không đơn giản.
       Bản tính của tôi là không bao giờ đầu hàng trước khó khăn, tôi lại nghĩ ra cách khác để tăng năng suất. Đầu tiên là việc đưa bổi tràm ủ kín lại 2 ngày, lá rụng ra hết, rũ cọng ra, chỉ lấy lá nhồi vào lò nấu. Hôm ấy 12 giờ đêm mới nấu xong mẻ đầu tiên, được 1500ml, tôi mừng quá. Nhìn vào phòng Thầy Khinh còn ánh đèn dầu hỏa tù mù , tôi cầm bịch dầu còn nóng hổi vào khoe với thầy. Lâu lắm tôi mới thấy khuôn mặt lạnh lùng khắc dấu ấn chiến tranh của Thầy nở một nụ cười mãn nguyện. Thầy móc túi lấy chùm chìa khóa ra mở cái ngăn kéo dưới tủ tài liệu lấy ra một cái bi đông cũ kỹ. Rót một ly nhỏ đưa cho tôi Thầy nói nhỏ nhẹ :
-Làm một ly cho ấm, cái này là vật bất ly thân của dân sốt rét rừng.
Nói xong, thầy mở tủ lấy cho tôi một tập giấy nâu loại đã được ngâm nước vò gạo tẩy chữ, phơi khô đem dùng lại (thời ấy giấy trắng chỉ được dùng soạn giáo án) .Thầy nói :
- Thôi, khuya rồi, ngủ đi mai còn lên lớp nữa, khi nào rảnh soạn lại quy trình mới này. Thứ năm họp ban lao động, ta bàn lại quy trình nấu dầu tràm.
     Tôi và Thầy Khinh ở chung nửa phòng, trong phòng Hiệu trưởng, sau một bức ngăn làm bằng ván ép. Chỗ ấy trước đó là nơi ở cả gia đình 5 người của Thầy Ngô Mạnh Quát, Quyền Hiệu trưởng trường An Lương Đông năm 1975-1976. Vật nhau với cái lò nấu dầu tràm từ chiều đến tối, mệt quá tôi leo lên giường lăn ra ngủ. Đến 6 giờ sáng mới dậy, nhìn qua giường không thấy Thầy, tôi vùng dậy ra tập thể dục một mình. Hôm ấy, Thầy chạy thể dục buổi sáng một mình, chắc là thấy tôi hôm qua vất vả quá nên lúc 5 giờ sáng Thầy không gọi tôi dậy.
      Bắt đầu từ tuần ấy, sau khi ban lao động thay đổi quy trình nấu dầu tràm, năng suất tăng lên rất cao, có mẻ nguyên liệu tốt, thu được đến 2000ml tinh dầu. Giảm được công nấu nhưng nguyên liệu vẫn không đổi. Trung bình 100kg bổi tươi vẫn chỉ thu được 1000ml tinh dầu. Công gánh bổi từ rừng về trường là mệt nhất. Mấy đứa học trò con nhà nông ở Nong, Truồi thì không có vấn đề gì lớn . Mỗi ngày đi học về mỗi em phải vào rừng bứt một gánh bổi nặng tới 50-60kg, để cân cho hợp tác xã làm phân xanh. Ngày mùa thì lên rãy nhổ một gánh sắn đem về xắt phơi làm lương thực. hoặc đi cắt vài gánh lúa. Đứa nào hai vai cũng có hai cái u, hai bàn tay chai khô ráp, thi thoảng chúng nó nghịch ngợm vuốt má đứa bạn gái nào một cái thì xước cả da.
       Một hôm sau khi chạy thể dục buổi sáng về, đang kéo cái gàu dưới giếng lên múc nước tắm Thầy dừng lại hỏi tôi :
-Em có quen người nào có trại trong rú không ?
     Tôi tưởng là Thầy hỏi để xin đất trồng sắn, hồi ấy các phụ huynh thường nhường cho các thầy cô giáo một miếng đất, ngày nghỉ kéo cả nhà lên tăng gia. Có nhiều lúc học trò thương thầy cô quá, kéo nhau đến làm giúp, đứa nào cũng giỏi lao động. Các thầy làm bì bật ngày này qua tháng khác không bằng tụi nó xúm lại, lùa một lúc là xong. Nhưng chuyện này phải bí mật, Thầy Khinh mà biết là không xong. Trường có ba lô đất trồng sắn : chùa bà Tham- Lộc Sơn, La ngà- Lộc bổn, xa nhất là rãy ở đèo La hy- Xuân lộc cách trường hơn 20km đường núi. Ở mỗi rãy như vậy , lô sắn của giáo viên riêng, học trò không được làm giúp. Thầy thường nhắc nhở : thầy giáo - tháo dày thì đi dép lốp. nhà trường – nhường trà thì uống nước trong. Đói cho sạch, rách cho thơm.
Tôi ngần ngừ một lúc rồi nói :
- Sắn thầy có 4,5 sào rồi, làm thêm nữa sợ không đủ sức.
Thầy cười vui vẻ :
- Không phải đâu, tuần này lớp em tìm một cái trại nào trong rú,gần sông Truồi, bứt bổi tràm tập trung về đó, ủ 2 ngày rồi cho học sinh thuê đò, mang bao tải vào đóng chở về cho đỡ vất vả.
Đang dội nước tắm, tôi reo lên.
- Chỉ có thế mà nghĩ mấy cũng không ra.
    May mà tắm ở giếng, nếu tắm ở sông thì tôi lại trở thành Ác si mét rồi. Quy trình sản xuất lại được đưa ra, nhiều giáo viên chủ nhiệm không tán thành vì thật ra đưa bổi về bằng đường sông phải thuê đò, chuyện góp tiền học sinh thuê đò không ai muốn làm, huy động tiền đóng góp của học sinh là điều cấm kỵ. Tôi và Thầy Khinh biểu quyết bị thua thảm hại trong phiên họp. Đêm hôm ấy thấy thầy nằm thở dài, tôi viết một lá đơn xin phép Ban giám hiệu cho tôi làm thí điểm theo quy trình mới nhưng xin lấy số dầu vượt khoán bán trả tiền đò. Sáng hôm sau tôi gửi đơn cho văn phòng. Mặc dầu ở chung với Thầy một phòng nhưng tôi biết tính Thầy, công tư phân minh cho nên vẫn phải vậy. Đến giờ giải lao Thầy kêu tôi vào đưa tờ đơn đã ký. Tôi ngần ngại hỏi Thầy :
- Thầy không chờ họp ban lao động bàn đã.
Thầy nói nhẹ nhàng :
- Không phải việc gì cũng phải bàn, nghị quyết tập thể chẳng qua là bằng chứng để thoái thác trách nhiệm cá nhân. Em cứ làm đi, sai Thầy chịu.
      Trời đất ơi ! có phải tôi đang đứng trước một Hiệu trưởng kiêm Bí thư chi bộ Đảng không . Tôi chưa bao giờ nghe một người nào nói câu này một cách bình thản như vậy. Người ta thường lấy nghị quyết tập thể làm sức mạnh đè lên nhân loại , thế mà Thầy lại nghĩ khác.
      Công việc triển khai trót lọt, không những hoàn thành nộp khoán đầy đủ mà nhờ tiền thừa thu được lớp 11B do tôi chủ nhiệm năm ấy có nhiều kinh phí để tổ chức học tập và các sinh hoạt khác lập rất nhiều thành tích, được Trung ương Đoàn công nhận Tập thể Học sinh XHCN. Cả lớp như một gia đình, mặc dầu chưa có vợ nhưng ngoài giờ lên lớp, học trò gọi tôi bằng một từ thân thương là bọ (từ bố của dân Bình Trị Thiên)
      Nghèo thì trong sạch, nhưng làm được nhiều tiền sinh ra tham. Nguyên liệu bằng lá tràm ngày một hiếm, cậu lớp phó phụ trách lao động người Lộc Thủy, đề nghị bắt chước dân chuyên nghiệp ở quê, thay bổi tràm bằng bổi chổi. Đi cắt bổi cây chổi rành được hai cái lợi. Ngoài việc lượng dầu tăng lên gấp hai còn lấy cành bó lại thành chổi, mấy đứa con gái ra chợ bán thu được khoản tiền tương đương tiền dầu. Quả là một vốn bốn lời. Lần này tôi làm liều, tiền trảm hậu tấu, làm xong rồi mới báo cáo Thầy. Đưa dầu chổi ra so sánh với dầu tràm không ai phân biệt được, ngay cả bà Minh sành sõi kia khi đến mua cũng không biết. Toàn bộ xác lá chổi do lớp tôi thí nghiệm vớt ra, cậu lớp phó đã bí mật đem đổ đi chỗ khác. Bên cạnh lò nấu toàn là lá tràm, có ai nghĩ đây là dầu chổi. Trên thị trường giá dầu chổi chỉ bằng một nửa giá dầu tràm.
     Lần này hý hửng tưởng đâu được khen, ai ngờ họp hội đồng Thầy ra lệnh cấm. Quá bất ngờ, nằm giường bên cạnh mà mấy ngày không nghe Thầy nói gì đến, bây giờ ra giữa công đường mới bị đánh. Tôi bị xốc, ấm ức không chịu nổi đứng lên định cãi. Thầy vui vẻ nói :
-Đồng chí không sai. Tôi rất thích sáng kiến này nhưng không thể làm như vậy được. Bây giờ khách hàng đã tín nhiệm ‘Dầu tràm cấp 3 Phú Lộc A’ rồi, tôi cũng đã báo cáo lên sở giáo dục Bình Trị Thiên rồi. Bộ giáo dục cũng đã biết. sắp tới nhiều trường học ở Quảng Bình, Quảng Trị sẽ về thăm, học tập kinh nghiệm của ta để tổ chức sản xuất ngoài ấy, nguyên liệu họ rất nhiều. Trường ta chỉ sản xuất dầu tràm. việc thí nghiệm nấu dầu chổi thành công rồi là tốt, dừng lại ngay kẻo không ai dám mua dầu tràm của trường mình nữa.
   Vốn hay tìm tòi, tôi kiếm tài liệu kỹ thuật chưng cất tinh dầu để đọc, quả thật có nhà nghiên cứu khẳng định là đổ dầu hỏa vào khi chưng cất, các nang chứa tanin bị vỡ nhanh hơn, thời gian chưng cất được rút ngắn gần một nửa, lượng tinh dầu cao hơn. Tôi đưa tài liệu đó bàn với Thầy. Sau một hồi nghiên cứu thầy trả tài liệu lại rồi tiếp tục moi chìa khóa ra, rót cho tôi một ly trong cái bi đông kỷ niệm chiến trường của Thầy. tôi mừng lắm, tợp một hớp xong rồi nói :
- Ngày mai em làm ngay thầy nhé.
Thầy lại nói
- Không được, đọc sách thì đọc cho đến đầu đến cuối. Phòng thí nghiệm của ta đâu có thiết bị tách tinh dầu ra sau khi chưng cất. Ta chưa đủ khả năng học bài của họ. chờ khi nào có thiết bị tách tinh dầu ra khỏi dầu hỏa thì Thầy để cho em làm.
Vốn tính bướng bỉnh tôi cãi lại :
- Thế thì phải 100 năm sau cũng không có ! cứ để em làm đi, không tách cũng được, ai mà biết.
Lần đầu tiên tôi thấy Thầy nghiêm nét mặt lại giận dữ :
- Tôi nhắc lại cho cậu biết, đây là trường học, cậu nên xin nghỉ dạy đi. Cái kiểu này thì mai mốt học trò trường này đều thành chuyên gia lừa đảo hết. Giỏi làm gì, càng giỏi càng nguy hiểm, đến lúc là mất nước.
     Tôi không ngờ Thầy tức đến vậy, xin lỗi Thầy xong lặng lẽ ra ngoài ngồi tự trách mình nông nổi. .
Ngày nay, mấy cái tủ gương trưng bày dầu tràm hai bên đường, không biết được trong những lọ dầu óng ánh kia có bao nhiêu phần trăm là cái tinh túy của đất trời. Trong các giảng đường nguy nga kia có bao nhiêu ông Thầy đáng kính như Thầy Kinh nữa. Vì thương hiệu ‘Dầu tràm Phú Lộc’ và lớn hơn nữa là vì chữ Thầy thiêng liêng mong muốn chia sẻ mọi người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét