Chuyện thật như bịa, bịa như thật. Gửi bạn bè khi nhâm nhi cafe sáng hoặc lai rai chiều. Không ám chỉ bất cứ cá nhân nào, trừ trường hợp viết tên thật. Không sợ bị chê, mong mọi người góp ý. Cảm ơn mọi người đã ghé thăm. Nguyễn Ngọc Minh.
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016
Lê Văn Khinh- Người Thầy đáng kính (phần 2)
Sau ngày giải phóng miền Nam 1975, để đạt mục tiêu giáo dục toàn, diện đào tạo con người mới XHCN, các trường học phải tổ chức cho học sinh trực tiếp lao động sản xuất. Một mặt thông qua lao động sản xuất để rèn luyện phẩm chất của người lao đông, mặt khác các nhà trường cũng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội và có thêm kinh phí cho các hoạt động khác . Trường An Lương Đông(lúc đó gọi tên là cấp 3 Phú Lộc A) có 4 loại hình sản xuất chính là: đi chặt củi, nấu dầu tràm, đi thu hoạch đót và trồng sắn.
Có một thân hình nhỏ nhắn, khô gầy với nước da tím tái do di chứng sốt rét trong những ngày chiến tranh gian khổ nhưng Thầy Lê Văn Khinh- Hiệu trưởng bao giờ cũng đi đầu trong hoạt động sản xuất. Đi kiếm củi trên núi Truồi (độ cao khoảng 1.111m) rất vất vả.Đi đò trên sông Truồi khoảng 7 km lên đến khe Trai, rồi đi bộ trèo đèo vượt suối khoảng 5 km lên tới cấp 2 động Truồi ( độ cao khoảng 600m) mới có củi. Nhiều thầy cô giáo lên đến nơi đã kiệt sức, nhưng vẫn phải cố gắng. Mấy giáo viên miền Bắc vào chi viện thì không có gì khó khăn lắm, các thầy cô giáo cũ của miền Nam thì quả thật là cực hình. Mỗi người phải chặt và mang về tối thiều 30 kg. Thầy Lê Quang Thông, Lê Văn Cần, Hồ Mua… dọc đường đi còn vừa đi vừa hát những bài ca bất hủ như “ Trên đỉnh Trường sơn ta hát..” nhưng đến nơi có củi thì thở chẳng ra hơi. Cơm nắm ăn xong mới lại sức, mỗi người cũng kiếm được một bó củi khô để cùi về. Đi rừng, vác nặng xuống dốc mới là thử thách. Có lần, thầy Chế Trọng Hùng vấp ngã lăn lông lốc cả người lẫn củi, lổm ngổm bò dậy loạng quạng mò không ra cái kính cận 5 độ, tôi phải dắt thầy Hùng xuống tới bến đò. Khi đi lên, đoàn quân oai hùng bao nhiêu, khi về thì thảm hại bấy nhiêu. Có mấy thầy cô đã tính đến chuyện vứt quách củi đi, về đến bến đò mua một gánh củi nộp vào vào là xong. Thầy Khinh vẫn thoăn thoắt vác củi của mình chạy đi trước, được một đoạn Thầy đặt bó củi xuống, quay lại vác giùm cho mấy cô giáo. Cuối cùng thì chập tối gần 30 giáo viên và 30 bó củi cũng về đến bến khe Trai, lên được đò rồi cả tốp lại nghêu ngao “ nổi lửa lên em…” rất yêu đời, về đến trường đói mềm, cả tuần sau hai bắp chân vẫn còn đau , hai vai thì ê ẩm. Số củi này, nhà ăn tập thể dùng được khoảng một tháng, tiết kiệm được tiền mua củi, chất lượng bữa ăn cũng nâng lên rõ rệt, mâm cơm đã có cá . Khi nào gần hết lại đi tiếp. Được vài lần như vậy ai cũng sợ nhà ăn hết củi. Một hôm thầy Đỗ Hữu Thạnh dạy Pháp văn kéo tôi đi uống café quán Hùng Huệ rồi thầm thì:
- Minh ạ, nói thật lòng, ngày nào thấy đống củi ở nhà ăn vơi đi là anh thấy ớn lạnh. Anh tính thế này em xem có được không? Việc này chỉ có em làm được.
Tôi chưa hiểu anh định nói gì thì anh thì thầm ngay sáng kiến:
- Mấy đứa anh bàn với nhau rồi, khi nào nhận lương mỗi đứa góp một ít, ngày chủ nhật, em nhờ mấy đứa học trò mua mỗi tuần một gánh bí mật chêm vào đống củi của nhà bếp, làm kiểu này 2 tháng mới phải đi củi một lần.
Tôi cũng cho là cao kiến và chấp nhận ý kiến này. Chủ nhật nào tôi cũng bí mật làm theo cách của anh Thạnh, sau đó 3 tháng mới phải đi củi một lần. Chị Nhơn, cấp dưỡng cũng biết điều đó nhưng im lặng. Một hôm Thầy Khinh gọi tôi vào hỏi:
- Việc mấy gánh củi em làm phải không?
Nhìn vào ánh mắt nghiêm khắc và độ lượng của Thầy tôi không thể nói dối được, đành thú nhận và sẵn sàng đón nhận những lời trách mắng . Nhưng ngược lại, như một người cha yêu thương và săn sàng tha thứ cho một đứa con lầm lỗi, thầy vỗ vai tôi nói nhè nhẹ.
- Không sao cả, lỗi là ở thầy. Từ nay trở đi không đi củi nữa.
Tôi thở phào nhẹ nhõm định chạy về khu tập thể báo tin mừng, hiểu ý tôi Thầy nói nhè nhẹ:
- Việc này chỉ có thầy và em biết thôi nhé.
Tôi không biết thầy tính toán thế nào, chắc lại bớt tiền ăn ra để mua củi như trước. Thôi kệ, ăn thiếu một tý cũng được, còn hơn phải đi củi, chỉ nghĩ đến đã rùng mình.
Sáng thứ 2 tuần sau, Thầy từ Huế về trường thật sớm, sau xe đạp chở hai bếp lò bằng tôn. Từ đó trở đi, nhà ăn tập thể dùng lá tràm do lò dầu tràm của trường thải ra để đốt. Giáo viên không phải đi củi nữa mà chất lượng bữa ăn cũng không giảm đi, trên mâm cơm vẫn có cá kho và trong bát canh chua vẫn còn cá lội .
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét