Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2017

HAI NGƯỜI VIỆT

 Daniel Phạm đến Mỹ từ lúc còn nhỏ nên nói tiếng Anh rất tốt và am hiểu pháp luật. Gia đình Daniel vốn đã vươt biển đến đây từ lâu, được học hành và rèn luyện nghiêm túc nên đã tạo cho nó một bản lĩnh kiên cường, và một cơ thể cường tráng. Mặc dù kém Tuấn 2 tuổi nhưng trong việc rắc rối thường gặp bao giờ nó cũng đứng ra che chắn, bảo vệ Tuấn như một người anh ruột. Chăm chỉ, chuẩn mực và tràn đầy sức sống, có một đức tin mãnh liệt vào Chúa nhân từ. Rất biết chăm lo và cũng rất khắt khe với bản thân cũng rất quan tâm đến bạn bè. Biết bùng nổ trong các quán bar và những bữa tiệc ồn ào náo nhiệt của người Mễ . Nhiều khi cũng một mình lặng lẽ ngồi hàng giờ trong công viên nhìn về chân trời xa xăm. Vào những ngày nghỉ, Daniel thường rủ Tuấn ra bãi biển, hai đứa nô đùa với những con sóng cho đến lúc kiệt sức rồi nằm dài trên bãi biển. Tuần nằm nhìn theo ông mặt trời đang từ từ lặn xuống đại dương. Tuấn nhớ về quê hương, bên kia đại dương giờ này bình minh đang hé rạng, những con gà trống rộn ràng gáy tan ca, những mẹ gà đang lục cục kêu đàn gà con dậy chuẩn bị một ngày mới vất vả kiếm ăn. Những nông phu đang chuẩn bị ra đồng, những đứa trẻ mắt nhắm mắt mở đang ngồi bậc cửa chờ trời sáng để tụng bảng cửu chương và ê a những bài thơ phải học thuộc lòng… Daniel nằm giang tay chân ra ngửa mặt nhìn lên bầu trời bắt đầu lấp lánh những vì sao. Ở đấy người cha thương yêu nhất đang mỉm cười với nó. Ký ức xa xôi tràn về, những con sóng đập ào vào mặt nó, nước biển mặn tràn vào mũi miệng nó cay xè, nó sặc sụa vẫy vùng trong bão táp. Hai bên hông nó đau thắt, hai bàn tay ba siết chặt nó, nâng lên trên mặt nước… nó không nhớ gì nữa. Nó chỉ biết sau này bố dượng của nó kể cho nó rằng gia đình của nó được tìm thấy trên một hòn đảo nhỏ ở Malaysia. Ba đã buộc nó và mẹ vào một sợ dây cùng với gói áo quần và chiếc can nhựa. Chiếc thuyền đánh cá nhỏ cùng cả đoàn người bị bão đánh tan khi gần đến bờ. Ba đã đưa được nó và kéo theo mẹ đến bờ rồi ông về với Thiên chúa. Daniel úp mặt xuống cát khóc, nước mắt nó thấm xuống làn cát mịn . Chưa bao giờ ai thấy nó khóc, nó chỉ khóc một mình, ở đây, trên bãi biển vào lúc hoàng hôn. Thuỷ triều đã lên, nước biển vỗ nhẹ vào chân Daniel sực tỉnh, ngồi dậy, hai dòng nước mắt bò trên gò má, từ từ lăn vào miệng. Daniel thích cái vị mặn ấy của nước mắt, cái vị mặn mà con người tội lỗi đã hoà vào nước biển hàng ngàn năm nay làm cho nước biển mặn chát. 
Gió biển thổi vào lạnh nổi da gà, hai đứa lên xe về .Từ Sunset Beach chạy về phương nam muốn gửi lời chào biển cả rồi mới ngoặt về đông nhằm hướng Little Saigon về nhà. Bụng đói cồn cào, Daniel chạy thẳng tới nhà hàng Bach Hoi Rach Gia trên đường Westminster Ave. Daniel và Tuấn thường ăn ở đây sau mỗi lần giao lưu với mấy thằng bạn thân người Mễ ở Garden Grove Park gần đó .Là khách quen, đồng hương của Daniel nên ông chủ đón tiếp hai đứa rất nồng hậu. Nhà hàng này có Rượu Thốt nốt có một không hai ở Cali, mấy ông già khi ăn, chỉ uống một ly nhỏ thôi, thường mua thêm vài chai về nhà uống. Không ai dám uống nhiều ở hàng quán. California nổi tiếng là “State Police”(tiểu bang cảnh sát) lái xe trên đường có mùi rượu, lần thứ nhất tốn vài nghìn Đô tiền phạt, lần sau phải ngồi tù . Chủ quán có thể phải đối mặt với án phạt vài nghìn Đô nếu để cho khách hàng say hoặc bán rượu cho trẻ con.
Hôm nay cả hai đứa đều buồn. Ăn no xong mua thêm một ít cá khô nướng và một chai rượu, hai đứa ra Công viên Garden Grove ngồi nhâm nhi tâm sự. Đã lâu lắm rồi Tuấn không uống rượu, thi thoảng chỉ uống một lon bia với ba trong bữa cơm cuối tuần. Daniel khá hơn, nó thường giao lưu với mấy đứa bạn người Mễ , nhưng thứ rượu Tequila của họ thì nhạt thếch, uống vào chỉ đủ sức nhảy bốn phương trời, quên cả đường về chứ còn say thì khó. Daniel chưa bao giờ nói với ai về hoàn cảnh của mình. Đi với Tuấn mỗi đứa thường có tâm sự riêng. Hôm nay lần đầu tiên trong cuộc đời nó kể về thân phận của nó cho Tuấn, thì ra ba của nó đã bỏ thân ngoài một hòn đảo nhỏ giữa biển Malaysia, mẹ con nó bơ vơ trên trại tị nạn ở Hồng Kông ba năm rồi mới được qua đây, nhờ một cựu chiến binh Mỹ bảo lãnh, người đó bây giờ là bố dượng của nó. Mẹ nó sinh cho ông được em gái Janet. Hai anh em nó thương nhau lắm nhưng sống trong hai thế giới khác nhau. Em nó chỉ nói tiếng Việt bập bẹ. mẹ nó âm thầm như ,một cái bóng trong nhà, bố dượng nó suốt ngày đóng cửa ngồi trong phòng với những kỷ niệm chiến trường đau khổ. Ngày chủ nhật gia đình nó lặng lẽ đến nhà thờ, đi siêu thị rồi về nhà, người nào phòng nấy. Daniel cũng không có tuổi thơ. Nằm giữa bãi cỏ ngửa mặt lên trời tâm sự, hai đứa ngủ quên lúc nào không biết. Đến khi hai thằng Lopez và Diego mang đàn ghita đến khua ầm lên, lôi hai đứa dậy chúng mới tỉnh. Hai đứa bạn người Mễ này vừa tan cuộc với bạn bè xong. Thấy Tuấn và Daniel nằm giữa bải cỏ chúng nó kéo dậy. Lại móc rượu ra, miệng hát, tay đàn, hai thằng quậy tưng lừng lựng, làm cho Tuấn và Daniel cũng vui lây. Với dòng máu lai Da đỏ và Tây ban nha mấy đứa này chưa bao giờ biết buồn là gì, chúng có đến đám ma cũng biến thành tiệc cưới. Cả bốn đứa chưa vui vẻ được bao lâu đã bị đưa vào đồn cảnh sát, đến lúc ấy chúng mới biết là đã quá nửa đêm. Lần đầu tiên Tuấn bị vào đồn cảnh sát. Daniel rất bình tĩnh, Tuấn thì hơi run. Hai thằng bạn người Mễ thi lắc la lắc lư tự tin, không phải là lần đầu chúng bị đưa vào đây, chỉ mất toi một tuần lương và ghi thêm vào một chấm trong cái bảng “thành tích” của chúng thôi . Tuấn lắp bắp dùng vốn tiếng Anh ít ỏi của mình để phân bua. Daniel nhắc Tuấn giữ quyền im lặng, không được nói gì và làm theo đúng lời khai của nó. Điện thoại và giấy tuỳ thân của chúng bị cảnh sát thu sạch. Ngoài chiếc đàn ghita và mấy vỏ chai rượu cả bọn không có vật chứng gì nguy hiểm. Daniel xin gọi điện báo tin về nhà và vui vẻ yêu cầu các bạn hợp tác với cảnh sát. Nó biết rõ luật tiểu bang, chỉ uống rượu quá giờ ở công viên thôi mà, Daniel và Tuấn chỉ phải ngủ lại một đêm, nộp phạt và bị chấm vào bảng thành tích một điểm là xong. Lopez và Diego bị đưa đến một phòng giam riêng vì không phải vi phạm lần đầu. Tuấn và Daniel được đưa vào khu tạm giam có 4 buồng, chung một cửa ngoài, trong mỗi buồng chừng 10 mét vuông có một giường 2 tầng, chăn gối, nệm đầy đủ…chỉ có một toilet chung cho 4 buồng.Ông cảnh sát gìà đưa hai đứa vào phòng rồi đi ra, không khoá cửa buồng, chỉ khoá cửa ngoài. Ra đến sân ông chỉ huy nhắc ông cảnh sát quay vào vào khoá cửa buồng, ông cảnh sát vui vẻ trả lời:
-Sếp yên tâm đi , hai đứa này không phải khoá cửa buồng đâu,để cho chúng đi toilet, chỉ cần khoá cửa ngoài thôi.
Ông chỉ huy không chịu:
- Nhỡ ra chúng trèo tường trốn mất thì sao?
Ông cảnh sát cười:
-Không bao giờ có chuyện đó. Hai thằng này không phải người Mễ đâu mà leo tường với khoét rào. Chúng nó là người Việt, chúng nó trốn sang đây rồi còn trốn đi đâu được nữa. Mà nếu có thằng nào leo lên tường rào định trốn thì thằng kia sẽ nắm chân lôi xuống thôi. Sếp cứ về phòng mà ngủ cho ngon đi.
Tuấn nghe cuộc đối thoại mà không hiểu gì hết. Hai đứa lên giường ôm nhau ngủ đến 8 giờ sáng, ra làm thủ tục nộp phạt rồi về. Chúng nó vi phạm lần đầu nên nhẹ tội. Tuấn muốn quay lại hỏi ông cảnh sát chuyện tối hôm qua nhưng Daniel kéo lui. 
-Thôi mà, em qua đây lâu rồi, em biết, họ nói đúng đấy anh ạ.

MỤ HÀO (Phần 2)

 Hợp tác xã (Cooperative) là một loại hình kinh tế tập thể khá phổ biến, hoạt động trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội và hiện diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau trên thế giới
Châu Âu có gần 290.000 hợp tác xã (HTX) với 140 triệu thành viên và khoảng 4,9 triệu người làm thuê. Liên minh châu Âu (EU) có khoảng 30.000 HTX nông nghiệp với doanh số khoảng 210 tỷ EUR. Các HTX nông nghiệp lớn nhất hoạt động trong các ngành chế biến bơ sữa, thịt và thương mại nông nghiệp. Lĩnh vực ngân hàng cũng là nơi các HTX có thị phần lớn (Thí dụ Rahobank của Hà Lan, Credit Agricole của Pháp và các ngân hàng Raiffsisen của các nước nói tiếng Đức). Các HTX bán lẻ rất mạnh ở các nước Bắc Âu (S Group và Scandinavian Coop Norden của Phần Lan) và Thụy sỹ…
Mỹ có gần 50.000 HTX với khoảng 150 triệu thành viên. Các HTX nông nghiệp (3.500 HTX) đóng vai trò quan trọng, đảm nhận gần 1/3 công việc thu hoạch, chế biến và thương mại nông nghiệp. Tổng doanh thu của các HTX này vào khoảng 100 tỷ EUR. HTX ở Mỹ rất mạnh trong ngành công nghiệp sản xuất bơ sữa, ví dụ như Dairy Farmers of America (DFA) với doanh số khoảng 10 tỷ EUR
HTX tiêu dùng (JCCU) là tổ chức cấp cao của khu vực HTX ở Nhật Bản. Các HTX thành viên của JCCU đã sản xuất trên 10.000 sản phẩm khác nhau mang nhãn hiệu “Co-op”, bao gồm lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng…
Đặc điểm nổi bật nhất của HTX nông nghiệp Nhật Bản là thực hiện hai nhiệm vụ chính: một là, cung cấp cho nông dân các yếu tố “đầu vào” phục vụ sản xuất nông nghiệp, như phân bón, hóa chất nông nghiệp, trang thiết bị, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi gia súc… ; hai là, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm bằng cách thu gom, bảo quản, dự trữ, bán các nông sản, vật tư dựa váo mạng lưới tiêu thụ sản phẩm quốc gia và quốc tế. HTX nông nghiệp là kênh tiêu thụ nông sản chính: 90% lúa gạo; trên 50% rau, hoa quả, sữa tươi… Nông dân Nhật Bản chủ yếu mua hàng qua HTX…
Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho toàn bộ HTX ở Ấn Độ. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển phong trào HTX ở Ấn Độ, giáo dục và hướng dẫn nông dân xây dựng và phát triển HTX…
Ở Hàn Quốc từ khi thành lập vào năm 1961, Liên đoàn quốc gia HTX nông nghiệp Hàn Quốc (NACF). Với gần 1.400 HTX thành viên, hoạt động của NACF rất đa dạng, bao gồm từ tiếp thi sản phẩm, chế biến, cung cấp vật tư và hàng tiêu dùng, tín dụng và ngân hàng, bảo hiểm, kho tàng, vận tải, khuyến nông, xuất bản và các dịch vụ hỗ trợ cho 5 triệu nông dân và cộng đồng nông thôn. NACF nắm giữ 40% thị phẩm nông sản trong nước và là một ngân hàng có số tiền gửi lớn nhất Hàn quốc…
Ở Ma-lai-xi-a, các tổ chức HTX được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ XX. Sự phát triển vững chắc của kinh tế HTX là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước này. Tổ chức HTX Ma-lai-xi-a (ANGKASA) là tổ chức cấp cao của các HTX Ma-lai-xi-a, có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về phương thức điều hành và quản lý các hoạt động của HTX qua việc tư vấn, giáo dục hoặc tổ chức những dịch vụ cần thiết….
Ở miền Bắc Việt nam từ sau Cải cách ruộng đất đến 1975 Các HTX nông nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp, mua bán… thuộc thành phần kinh tế Tập thể- một trong hai chủ thể của nền kinh tế XHCN : Quốc doanh- Tập thể. Trong giai đoạn này các HTX đã phát huy tác dụng tốt. Một mặt bảo đảm được đời sống của nông dân, cung cấp được lương thực, thực phẩm cho xã hội và có đóng góp to lớn cho chiến trường. Mặt khác đã xây dựng được ý thức tập thể cho một tầng lớp nông dân đông đảo, nghèo nàn và lạc hậu sống và sản xuất theo lối cò con hàng ngàn năm.
Sau năm 1975, ở miền Nam phát triển vội vã các HTX. Ở miền Bắc các HTX nâng cấp lên quy mô lớn lớn (1, 2 xã thành 1 HTX). Quản lý theo kiểu quan liêu , bao cấp cộng thêm sự thoái hoá biến chất trong đội ngũ lãnh đạo, đã biến các HTX ở Việt nam thành những con khủng long quái thai, thành những cơn ác mộng của cả dân tộc. Phong trào xây dựng HTX trở thành cơn siêu bão, tàn phá tận gốc rễ mọi kết cấu của nền kinh tế và các chuẩn mực đạo đức của xã hội truyền thống. Không ai có thể hình dung được một quốc gia xuất khẩu gạo hàng nhất nhì thế giới, "kho dữ trữ lương thực của nhân loại" vào thời điểm đó lại phải đi xin ăn khắp tất cả các nước. Đói từ Bắc vào Nam, từ thành thị đến nông thôn. Bần cùng sinh đạo tặc, người lương thiện nhất cũng phải ăn cắp, ăn trộm. Cán bộ nhà nước ăn cắp của công, người tử tế nhất cũng ăn cắp thời gian để tăng gia tự cải thiện đời sống. Công nhân ăn cắp từ nguyên liệu đến sản phẩm, nông dân ăn cắp lúa, khoa, rau củi…do chính mình làm ra. Đạo đức, lương tâm….trở thành một thứ giòi bọ đang xâu xé cả một dân tộc đi đến bờ vực của sự diệt vong. Trong hoàn cảnh như thế nhưng tất cả mọi người đều phải ngậm miệng.chỉ cần anh hé miệng ra kêu ca thì nếu không phải là "tàn dư" của chế độ cũ thì cũng là "phản đông quốc tế" xúi giục… và các trại cải tạo sẽ là nơi nhập hộ khẩu của anh. Phía Nam chưa xong nạn Pôn Pôt thì phía Bắc lại bị Bành Trướng áp chế. Cuộc sống âm thầm trôi đi nhưng thần kinh căng như những sợi dây đàn.
Ngày làm việc, đêm họp hành bình bầu, kiểm điểm… một ngày công được 3-5 lạng lúa.’rờ đến bung-đụng sắn, chạm đến cổ - rổ rau’. Nghe đài radio và đi xe đạp là điều không tưởng đối với mấy anh nông dân. Chỉ có cán bộ xã và HTX mới có mấy hàng xa xỉ đó., Không ai dám mở miệng, chỉ có Mụ Hào, sau mỗi buổi ăn xin ở về chợ là đứng giữa ngã ba đường, cùng với một lũ trẻ con vừa nhảy múa vừa hát bằng một giọng khàn khàn đặc trưng như chị Siu Black:
Một người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe…
Hợp tác là hợp tác te
Đi bộ thì ít đi xe thì nhiều….
Hợp tác là hợp tác te
Ba năm mét vải không đủ che cái lờ.. 
Hợp tác là hợp tác te…
Những câu hát của Mụ Hào và lũ trẻ nghịch ngợm lan truyền khắp hang cùng, ngõ hẻm, vào cả các trường học,…đến cả các hội nghị và cả các Đại hội HTX, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ…
Mụ Hào trở thành một hiện tượng xã hội mang màu sắc chính trị, các cơ quan chức năng vào cuộc. Du khích về mời mụ lên UB xã làm việc, hai du kích đi áp tải hai bên, mụ đi giữa không mặc quần, đeo một vòng hoa ở cổ, vừa đi vừa hát :
Lờ ở lổ, cổ đeo hoa
Để lờ ở nhà đeo hoa đi họp.
Đưa mụ lên đến xã, cán bộ nam tránh hết, đẩy mấy cô phụ nữ ra làm việc với mụ, hỏi mụ sao không mặc quần, mụ không trả lời lại hát điệp khúc:
Hợp tác là hợp tác te
Không có phiếu vải lấy chi mà che cái lờ..
Bí quá mấy cán bộ nữ phải kiếm một cái quần đùi cũ của ông nào đó mặc cho mụ. Mụ thích quá hai tay xách hai ống quần lên,
ra giữa sân lại nhảy múa và hát 
Hợp tác là hợp tác te
Xã cho miếng vải đủ che cái lờ..
Không thể thả mụ về, mà cũng chẳng bắt nhốt mụ được, Công an xã đành phải phạt mụ ra sân UB xã nhổ cỏ. Mụ chấp hành nghiêm chỉnh, đến chiều hết giờ làm việc, mụ vào níu áo chủ tịch xã đòi tiền công. Giải thích mấy mụ cũng không chịu, dứt khoát là chủ nghĩa xã hội có làm là phải có ăn. Ngồi mãi giữa cửa không chịu đi. Mấy ông xã phải góp tiền túi trả công cho mụ, từ đó trở đi thì chừa. 
Hợp tác là hợp tác te…
Cái điệp khúc ấy của mụ Hào trở thành câu mở đầu của nhều bài hát đồng dao, của nhiều bài thơ, câu hò, câu vè… mụ Hào đều là tác giả.(còn tiếp)

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2017

MỤ HÀO (phần 1)

Mụ Hào (phần 1) 
Thừa thiên “nhất Huế nhì Truồi”, hoặc “nhất Truồi nhì Sịa”. Câu nói này dân Thừa Thiên ai cũng biết. Có thể là do phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, cũng có thể là con người xứ Truồi có những đặc điểm văn hoá riêng biệt, khác với người TP Huế. Người xứ Huế vốn kín đáo, âm thầm, sâu lắng. Dân xứ Truồi hay triết lý , hơi ngông nghênh một chút và có phần hài hước. Đặc điểm nổi trội là nghề “chém gió”, nếu xếp 7 bậc thì hầu hết cao thủ ở đây đạt trình độ “thợ nói” 6/7 hoặc 7/7. Những người thành đạt, giàu có thì không nói ai cũng biết là chém bậc thầy rồi, những người được xem là yếu thế nhất trong xã hội là làm nghề ăn xin cũng chém thật kỳ khôi. Tôi kể các bạn nghe chuyện Mụ Hào, một người ăn xin mà khoảng 30 năm từ 1965-1995 ,cả huyện Phú lộc này không người nào không biết.
Không ai biết mụ bao nhiêu tuổi. Trẻ con ở xứ Truồi khi còn nhỏ đã biết mụ Hào, lớn lên, ăn học, đi làm ăn xa , có vợ có chồng đưa con cái về thăm quê ra chợ lại gặp mụ Hào, vẫn giống như ngày xưa, không thay đổi, không già, không trẻ. 
Mụ không bao giờ đi dép, hai bàn chân thô, nứt toét cả bốn mùa, hai ngón cái chĩa ra vuông góc với bàn chân,. Có thể mụ chính là hậu duệ là người Giao chỉ, tổ tiên người Việt . Chân đi vòng rây, bước đi lạch bạch, lắc lư như con vịt xiêm (ngan). Một cậu bé giàu trí tưởng tượng có thể ước ao giá như mụ là hậu vệ hay thủ môn đội bạn để nó có thể thành siêu sao nhờ xâu kim quả bóng để làm bàn. Áo quần mụ mặc đều là đồ lửng, ngắn gọn và được buộc chặt chẽ dưới lai quần và ngang hông như mấy thợ cấy chuẩn bị xuống ruộng sâu. Đi ra ngoài đường khi nào cũng có đôi gánh trên vai, hai đầu là hai cái rổ xể cạp được buộc lại cẩn thận và có hai cái mẹt đậy kín. Không ai biết được trong gánh của mụ có cái gì. Chiếc nón của mụ đội rất đặc biệt, không biết nhà thiết kế nào viết lên một hàng chữ màu đỏ MỤ HÀO XÚC ÔỐC rồi bọc thêm một lớp ni lông bên ngoài cẩn thận. Nghề nghiệp của mụ là ăn xin, nhưng không giống những kẻ ăn xin khác, mụ không ngửa tay xin ai bao giờ.
Ngày làm việc của mụ Hào bắt đầu từ khi chợ chưa có người và kết thúc khi chợ hết người. Đều đặn, ngày nào cũng vậy, mụ đến chợ sớm nhất, không ai giao nhiệm vụ nhưng việc đầu tiên là mụ sắp xếp lại những bàn ghế mà tụi trẻ con ban đêm đưa ra chơi vứt ngổn ngang, cái nào của sạp hàng nào là mụ nhớ hết, đưa về đúng chỗ của nó. Sau đó, người đầu tiên gánh hàng đặt xuống chợ là mụ giúp nhấc một đầu, sắp xếp hàng hoá. Vòng quanh từ hàng rau cỏ, củi …cho đến hàng thịt, cá, mắm, ruốc...Hết một vòng rồi mụ quay lại lượm lặt tất cả rác rưởi, lá bánh…bà con vứt lung tung gom lại một đầu gánh. Xong việc mụ dựa vào gốc cây bên đình chợ bỏm bẻm nhai trầu, nhìn dân tình người người mua mua bán bán có vẻ mãn nguyện. Chợ gần tan là đến giờ thu hoạch của mụ, hai chiếc mẹt đậy hai cái thúng được lật ngửa lên. Mụ lẳng lặng đi giữa hai hàng quán xá, không ai bảo ai cả, mỗi người bốc cho mụ một nắm hàng hoá của mình, người thì mấy củ khoai…, kẻ thì cho vài con cá… ai bán gì cho nấy. Không xin và cũng chẳng cảm ơn ai cả, mụ cứ thế đi, một vòng, hai vòng …cho đến khi chợ hết người. Công việc cuối cùng của mụ là sắp xếp , phân loại “chiến lợi phẩm” trong ngày lại cẩn thận, mụ để lại một ít đủ cho mụ và một đứa cháu gái mồ côi con đứa em ruột. Hai o cháu sống trong một túp lều gần bãi tha ma. Cô cháu gái được mụ nuôi ăn học đàng hoàng. Số hàng còn lại mụ đem bán lại cho mấy quán nhỏ đầu xóm để họ bán lại cho những người bận đi làm đồng, không đi chợ được. Mỗi ngày như mọi ngày, mụ bao giờ cũng có thu nhập cao so với mấy người nông dân làm ruộng. Trước khi ra về mụ không quên dạo một vòng quanh chợ, lượm hết rác rưởi trong cái chợ nhỏ bé nhét đầy hai đầu gánh, mụ sẽ đem về tấp vào mấy cái hố trên cồn để trồng khoai từ. củ nhiều lắm. Người ta ít biết đến Mụ Hào cần mẫn này, mà từ già đến trẻ lại biết nhiều tới một mụ Hào khác, một mụ Hào chửi như hát hay. Nhiều người nghĩ là mụ điên. Từ sáng đến trưa lầm lũi làm việc như một con bọ hung, mụ không mở miệng cho nên ra đến đường về là mụ bắt đầu hát. Mụ ngâm thơ, hò giã gạo…đôi lúc còn thả mấy câu vọng cổ mùi mẫn nữa cho nên trẻ con chạy theo cả đàn. Đến chỗ ngã ba đường đôi khi mụ còn đặt gánh xuống vừa múa vừa hát, tụi trẻ con ngắt cho mụ mấy cành hoa, mụ dắt xung quanh người, cài lên đầu… làm trò như phường hát bội. Nhiều đứa còn xắn tay áo lên để cho mụ béo một cái thật đau để chứng minh lòng dũng cảm với bạn bè. Có nhiều đứa cõng em ra để xem, khi nào em khóc nhè dỗ mãi không nín là chúng lại lấy mụ Hào để doạ , thậm chí người lớn cũng bắt chước dùng mụ Hào để doạ trẻ con. Trẻ con đứa nào cũng vừa sợ và cũng vừa thích mụ Hào. Cái tài của mụ là ứng biến rất nhanh. Đang hát hò vậy mà bất ngờ có anh chàng nào áo quần chỉnh tề đi ngang là mụ thả ngay một câu lục bát:
Ra ngoài áo mũ xênh xang.
Về nhà ăn rạm cắn ngang cả lờ… 
Cả trẻ con và người lớn được phen cười no bụng.
Thời bao cấp cái gì cũng tem phiếu. Nông dân vào hợp tác xã thì một năm chỉ được cấp tem phiếu mua hai mét vải, người không vào HTX thì không có. Thấy bà con đi làm HTX về mụ hát:
Hợp tác là hợp tác te
Hai năm mét vải bưa (vừa đủ) che cái lờ..
Có nhiều người phản ánh cho cán bộ, HTX kêu mụ lên để làm kiểm điểm vì tội nói xấu HTX, mụ không biết chữ. Gọi công an đến làm biên bản khẩu cung, cán bộ nói rằng mụ nói xấu HTX là : 
Hợp tác là hợp tác te 
Hai năm mét vải bưa che cái lờ..
Mụ yêu cầu công an ghi vô biên bản là cán bộ nói như vậy, còn mụ nói khác :
Hợp tác là hợp tác te
Đi bộ thì ít đi xe thì nhiều 
Ca ngợi HTX như vậy sao lại bắt tội được ? đành bó tay, thả cho mụ về (còn nữa)